Lợi thế của VITAS: Nghiên cứu ca bệnh về công thức mở cho các bác sĩ
Nghiên cứu điển hình: Bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) nặng
LH*, bệnh nhân nam 65 tuổi mắc bệnh tắc nghẽn phổi mạn tính (COPD) thường xuyên phải dùng ô-xi và kèm cả bệnh tiểu đường có kiểm soát chế độ ăn uống, được giới thiệu tới dịch vụ chăm sóc cuối đời sau khi sụt 20 pound trong sáu tháng qua và gặp phải tình trạng suy giảm chức năng làm hạn chế khả năng di chuyển của ông đến mức độ là thấy khó thở chỉ trong vài bước đi.
Khi tham gia vào dịch vụ chăm sóc cuối đời, Y tá đã đăng ký (RN) xác định rằng lọ hít bột khô của ông không còn có tác dụng và chuyển ông sang phương pháp trị liệu bằng máy xông khí dung hàng ngày và khi cần thiết để điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) của ông. Steroid đường uống được tăng liều để kiểm soát viêm tấy và bắt đầu sử dụng opioid liều thấp khi cần thiết và thuốc giải lo âu điều trị khó thở và lo lắng.
Gói thuốc điều trị khi chăm sóc cuối đời của LH bao gồm liệu pháp ô-xy lâu dài, được hỗ trợ bằng cách chuyển bình ô xy di động tới nhà của ông, giường bệnh viện vận hành bằng điện giúp dễ thở trong khi ngủ cũng như cho chuyên viên trị liệu hô hấp đến kiểm tra cách tuần một lần để hướng dẫn về cách sử dụng thiết bị chăm sóc cơ quan hô hấp và an toàn về O2. Khung tập đi và xe lăn được chuyển tới để hỗ trợ việc đi lại và an toàn. Trong một đợt kịch phát bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), LH được kê đơn dùng kháng sinh trong 7 ngày, uống tăng liều steroid và ô-xi được cân chỉnh để tạo sự thoải mái.
Sau 12 tuần được chăm sóc cuối đời, LH ra đi thanh thản tại nhà có vợ, con và các cháu quây quần ở bên.
*Những chữ viết tắt này thể hiện một bệnh nhân được ẩn danh và chỉ dùng cho mục đích hướng dẫn.
Bệnh nhân được chăm sóc cuối đời tiếp tục nhận thuốc chỉ định theo bệnh
Trong 2015 nghiên cứu thuốc liên ngành hồi cứu, nhân viên của gần 700 cơ sở chăm sóc cuối đời đã được hỏi câu: "Tên của các loại thuốc mà bệnh nhân đã sử dụng trong 7 ngày trước và trong ngày họ qua đời khi đang được chăm sóc cuối đời là gì? Vui lòng liệt kê bất kỳ loại thuốc đang dùng, thông thường hoặc khi cần."
Tỉ lệ phản hồi khảo sát không có trọng số là 71%. Số thuốc trung bình được dùng là 10,2, với phạm vi từ 8,5 cho bệnh nhân mắc bệnh mất trí nhớ đến 11,4 cho bệnh nhân mắc bệnh phổi.
Các lớp trị liệu phổ biến nhất bao gồm:
- 98% thuốc giảm đau
- 78% thuốc chống nôn và thuốc chống chóng mặt
- 76% thuốc trị lo âu, thuốc an thần và thuốc ngủ
- 71 % thuốc chống co giật
- 53% thuốc nhuận tràng
Mẫu thuốc có liên quan tới chẩn đoán xuất hiện trong dữ liệu. Khoảng 1/4 số người đã dùng thuốc ức chế bơm proton, thuốc chống đông máu và thuốc chống trầm cảm, có dưới 20% người đã dùng thuốc kháng axit và thuốc kháng sinh.
Một phần trăm nhỏ hơn những người mắc bệnh mất trí nhớ và suy nhược so với những người mắc bệnh ung thư có sử dụng thuốc giảm đau opioid, trong khi đó một số lượng bệnh nhân cao hơn mắc bệnh mất trí nhớ và suy nhược so với những người mắc ung thư và bệnh phổi sử dụng thuốc chống trầm cảm. So với những người thuộc nhóm lâm sàng khác, người mắc bệnh tim có nhiều khả năng sử dụng thuốc lợi tiểu hơn, còn những người mắc bệnh phổi có nhiều khả năng hơn những người thuộc nhóm lâm sàng khác có sử dụng thuốc giãn phế quản.
Các tác giả chỉ ra rằng bệnh nhân tiếp tục nhận các phương thức trị liệu tập trung vào bệnh khi ở giai đoạn cuối đời hơn các trị liệu chỉ dùng để trị các triệu chứng và gợi ý rằng các biện pháp điều trị có thể khác nhau tùy vào chẩn đoán bệnh chính của người đó.
Một trong các tác giả của nghiên cứu, Joseph Shega, MD, Phó chủ tịch cao cấp của VITAS và giám đốc y khoa viết "Khi dân số quốc gia già đi và lượng người được chăm sóc cuối đời tăng lên, việc hiểu rõ các loại và tỉ lệ sử dụng thuốc ở giai đoạn gần cuối đời là một ưu tiên của y tế công cộng."
Quyền lợi về Công thức mở của VITAS cho các bác sĩ
Công thức mở của VITAS đảm bảo rằng bệnh nhân có thể tiếp tục nhận các trị liệu và thuốc dựa trên bằng chứng và hướng theo bệnh để kiểm soát các triệu chứng của họ và cải thiện chất lượng cuộc sống sau khi họ chuyển sang dịch vụ chăm sóc cuối đời.
Trong trường hợp của LH, kế hoạch chăm sóc cuối đời của VITAS sẽ bao gồm thuốc ức chế cholinesterase nếu thuốc này giúp giảm triệu chứng, nhưng sẽ không bao gồm nếu thuốc không giúp giảm triệu chứng hoặc có thể góp phần gây hại. Nếu thuốc ức chế cholinesterase đã được kê đơn không giúp giảm triệu chứng hoặc gây tổn hại cho bệnh nhân, kế hoạch chăm sóc sẽ ngừng phương pháp điều trị đó.
Bệnh nhân có nhiều khả năng cảm thấy thoải mái về quyết định chuyển sang chăm sóc cuối đời nếu họ biết rằng mình có thể tiếp tục nhận được thuốc và các trị liệu tập trung mang lại sự thoải mái và giảm đau.
VITAS cung cấp vật tư và trang thiết bị y tế liên quan tới chẩn đoán khi được chăm sóc cuối đời cho bệnh nhân, được y tá của VITAS hỗ trợ giám sát đối chiếu thuốc và quản lý hộp thuốc.
Nguồn: Dwyer, L. Lau, D., & Shega, J. (2015). Thuốc mà người cao tuổi đang được chăm sóc cuối đời sử dụng tại Hoa Kỳ, 2007. Tạp chí Hiệp hội Lão khoa Hoa Kỳ 63(11), 2282-2289.